Bếp đá đắp tạm bợ lúc nâng cấp. Lý Quân An dùng đất sét trộn đá vụn, xây một cái bếp đất quy củ hơn, cả đường thoát khói. Trên bếp, chậu đồng sâu lòng và ấm đồng quai xách – “bảo vật trấn bếp” của họ – đặt vững vàng. Khói dẫn lên cao, bay về phía cửa hang, nhờ mà trong hang cũng bớt hẳn khói dầu.
Cuộc cách mạng lớn nhất, chính là chiếc chảo sắt nhỏ mà Tô Nguyệt hằng mong mỏi rốt cuộc rèn thành! Lý Quân An dùng một khối sắt rèn hảo hạng, lặp lặp việc gấp và rèn đập, dùng búa đá nhỏ tỉ mỉ chỉnh sửa, rèn một chiếc “chảo đáy bằng” lòng cạn, một tay cầm (dùng gỗ cứng bọc để chống nóng)! Dù dày và chút xiên vẹo, nhưng đây chính là chiếc chảo dùng để xào thức ăn đích thực!
Lần đầu tiên dùng chảo sắt xào rau, cả hai đều vô cùng phấn khích. Chảo nóng, Tô Nguyệt dùng một miếng thịt mỡ nhỏ để rán lấy mỡ (thỉnh thoảng họ săn vài con thú nhỏ béo ), “xèo” một tiếng, hành dại thái nhỏ và “Tiêu Thủy Tinh” vụn đổ chảo phi thơm! Mùi cay nồng mạnh mẽ lập tức tràn ngập cả hang động, khiến Lý Quân An ho sặc sụa, nhưng kìm mà hít hà thật mạnh: “Thơm! Thật thơm!”
Kế đó, thịt thái lát mỏng (dùng d.a.o đồng thái rau củ), hoặc rau dại rửa sạch, đậu que cắt khúc… Chảo sắt dẫn nhiệt nhanh, nhiệt lượng tỏa đều, Tô Nguyệt dùng xẻng gỗ (do Lý Quân An gọt) nhanh tay xào đảo. Nguyên liệu nhảy múa trong chảo, phát tiếng xèo xèo vui tai, màu sắc từ tươi sống chuyển sang bóng bẩy hấp dẫn. Cuối cùng, rắc thêm chút muối (muối thô họ tinh luyện từ một loại khoáng đá vị mặn) và bột nấm khô để tăng thêm vị tươi ngon.
Một đĩa thịt xào hành tiêu, một đĩa đậu que xào “Tiêu Thủy Tinh” đặt lên bàn đá (một phiến đá lớn bằng phẳng). Ôi chao cái mùi vị đặc trưng của chảo xào! Cái màu sắc ! Cái hương thơm xộc thẳng mũi ! Mạnh hơn nấu nước và nướng bao nhiêu ! Lý Quân An ăn đến mức miệng đầy dầu mỡ, liên tục hô: “Cái chảo sắt ! Rèn quá đáng giá! Còn đáng giá hơn cả việc rèn một thanh bảo đao!”
Ấm đồng đun nước nhanh, lúc nào cũng nước nóng để uống. Tô Nguyệt còn dùng ấm đồng nấu đủ loại canh: canh nấm, canh rau dại nấu trứng (thỉnh thoảng nhặt trứng chim), canh xương (xương săn nỡ bỏ, hầm đến trắng đục). Vào những đêm giá lạnh, quanh bếp lửa, bưng một bát canh nóng hổi, thơm lừng, lắng tiếng tí tách của nước nhỏ từ trần hang, mệt mỏi và giá lạnh đều xua tan.
Hoa cúc dại phơi khô, lá bạc hà, thậm chí là một loại quả dại chua ngọt sấy khô, đun sôi bằng ấm đồng, pha thứ “ hoa quả” mang hương thơm tự nhiên. Tuy đường, nhưng vị ngọt hậu tự nhiên là một sự hưởng thụ hiếm nơi đáy hang. Đôi khi, Tô Nguyệt còn bỏ vài lát “ớt” khi nấu canh thịt, thành món “canh cay nguyên thủy”, uống xong cả hai đều toát mồ hôi trán, sảng khoái.
[Truyện được đăng tải duy nhất tại MonkeyD.net.vn - https://www.monkeydtruyen.com/nhat-ky-khai-hoang-cua-to-nguyet-trong-rung-nguyen-sinh-thoi-co-dai/chuong-31-khoi-bep-luon-lo-hoi-am-bep-day-ham-ngap-tran.html.]
Tô Nguyệt quả là một “nông phu tài giỏi”. Mấy loại rau dại phát hiện đây thuần hóa thành công: “Cải dầu” lá dày ( vị tương tự), “Đậu que dài” leo (giống đậu đũa), và những bụi “hành dại” lá vị cay nồng. Nàng thậm chí còn dùng d.a.o đồng nhỏ, cẩn thận tách rễ một loại cây củ mọng nước (nghi là củ cải dại) để cấy ghép, mong chờ thu hoạch “củ cải”!
Mấy loại cây thơm tìm thấy ở chỗ ẩm ướt vách hang di thực mép ruộng bậc thang. Một loại giống tía tô, một loại như gừng dại, và một loại cây bụi lá khi vò nát tỏa hương hoa tiêu nồng nặc (Tô Nguyệt coi như báu vật, gọi nó là “Tiêu Thủy Tinh”).
Tro củi từ lò luyện sắt là phân kali hảo hạng. Phân thải của và vật nuôi (chủ yếu là hai họ), cộng với rơm rạ và phân từ việc dọn dẹp chuồng thú (họ thử nuôi nhốt vài con vật nhỏ bắt , giống chuột tre), trộn lẫn với đất mùn lá cây đáy hang, ủ lên men ở một góc. Mùi vị … quả thực nồng. Tô Nguyệt bịt mũi : “Đây chính là bảo bối! Cây cối tươi, đều nhờ phân bón!” Lý Quân An chịu trách nhiệm định kỳ lật ủ, nào cũng hun choáng váng, nhưng vì những lá rau xanh mướt, đành nhịn!
Gà Mái Leo Núi
Giờ đây, những bữa ăn thường ngày của họ trở nên phong phú hơn nhiều. Buổi sớm: Thường là một bát cháo kê nóng hổi hoặc khoai “Thủy Tinh” hấp, ăn kèm chút dưa muối (rễ và rau dại ướp muối), thêm một ly nước bạc hà để tỉnh táo. Sau đó, Lý Quân An hầm mỏ hoặc săn bắn, Tô Nguyệt chăm sóc vườn rau, cho “chuột tre” ăn hoặc chuẩn nguyên liệu bữa trưa.
Bữa trưa khá tùy tiện. Có thể là thức ăn thừa từ tối qua hâm nóng , cũng thể là Tô Nguyệt dùng chảo sắt nhanh tay xào một đĩa rau dại theo mùa, hoặc nấu một bát mì nấm (dùng bột khoai hoặc bột đậu giã nát pha sệt, nhỏ từng giọt nước sôi thành mì cục).
Hoàng hôn là màn chính trong ngày. Lý Quân An mang theo chiến lợi phẩm (nếu may mắn) hoặc quặng đá trở về, “nhà bếp đáy hang” của Tô Nguyệt cũng bước thời khắc bận rộn nhất. Bếp lửa đỏ rực, chảo sắt kêu lách cách, hương thơm lan tỏa khắp nơi. Các món hầm, món xào, thịt nướng (dùng d.a.o găm sắt xiên qua nướng lửa, hiệu quả hơn nhiều), món chính, canh nóng… đều cố gắng chuẩn đầy đủ. Đây là khoảnh khắc thư thái và mãn nguyện nhất trong ngày của cả hai, ăn trò chuyện về những gì thu hoạch hôm nay và kế hoạch cho ngày mai, trong gương đồng phản chiếu hai gương mặt dính hạt cơm nhưng rạng rỡ nụ .
Trong Hầm Thủy Tinh, tiếng sắt thép va đập “đinh đang” vẫn vang vọng, nhưng nhiều hơn thế, là tiếng xào xạc của cuốc xới trong vườn rau, tiếng bước chân cẩn trọng trong rừng nấm, cùng với tiếng xèo xèo của chảo sắt xào nấu bên bếp, tiếng sủi bọt của ấm đồng đun nước. Vị mặn của mồ hôi, mùi tanh của đất, hương thơm thanh khiết của cỏ cây, mùi lạ của nấm, hương nồng của món xào, mùi ấm áp của canh… Những hương vị phàm tục nguyên thủy và chân thực nhất , cùng với ánh sáng vĩnh cửu và nước mát lành, dệt nên mỗi ngày bình dị nhưng tràn đầy sức sống và thi vị của Tô Nguyệt và Lý Quân An trong “Thủy Tinh Cung”. Họ dùng trí tuệ và đôi tay của , biến việc cầu sinh thành cuộc sống.